Phân tích bài sóng
Cứ mỗi lần đọc bài thơ Sóng, tôi lại nhớ đến nhà thơ Xuân Quỳnh với cái cảm giác mình đang đứng trước biển. Biển mênh mông vô tận, ào ạt, đắm say, “dữ dội và dịu êm” như tâm hồn nồng nhiệt khát khao tình yêu cháy bỏng của thi sĩ. Đoá quỳnh mùa xuân mê đắm và ngạt ngào hương sắc ấy đã toả sáng hết mình, để rồi một ngày thu đẹp giữa mùa trăng, chị vĩnh viễn đi vào cõi tình yêu bất tử. Nhưng những vần thơ của chị sẽ mãi mãi còn nổi sóng.
Với bài thơ Sóng, Xuân Quỳnh viết năm 1967 in trong tập Hoa dọc chiến hào (1968) được nhều người tiếp cận từ các góc độ khác nhau: có người chú ý đến hình tượng song đôi sóng và em, có người lại cảm nhận âm điệu dạt dào như sóng vang ngân trong suốt bài thơ. Và có người lại tìm hiểu lời tự bạch “và lời tự hát” của một trái tim phụ nữ đắm say, khao khát tình yêu. Nhưng thơ Xuân Quỳnh hay không chỉ nhờ âm điệu, sự cấu tứ hình tượng, hình ảnh và ngôn ngữ thơ đặc sắc. Cái độc đáo trong thơ chị là sự giản dị chân thành, nỗi cháy bỏng đam mê, thẳm sâu.
Bài thơ có nhan đề Sóng, rất ngắn gọn, giản dị, nhưng hàm ẩn, gợi mở. Người đọc có thể tuỳ theo lứa tuổi, sự từng trải, óc tưởng tượng của mình để cảm hiêể chủ đề bài thơ ẩn chứa sau cái tên giản dị ấy. Sóng có thể là sóng biển, sóng lòng, sóng tình hay khát vọng dâng trào… Sóng với tính chất mãnh liệt trào dâng và âm vang trẻ trung muôn đời của nó, từ xưa đến nay luôn có mặt trong thi ca nhân loại.
Bài thơ được viết bằng thể thơ ngũ ngôn, vốn vô cùng thân thiết với những ai yêu thơ Xuân Quỳnh. Vẫn cái nhịp thơ vừa sôi nổi vừa đằm thắm ấy của Thuyền và biển, Thơ tình cuối mùa thu… mà tiết tấu luôn luôn biến hoá theo sự phong phú của cảm xúc. Ngay từ khổ thơ đâầ, hình tượng sóng đã xuất hiện để rồi từ đó chiếm lĩnh toàn bộ bài thơ. Và cũng từ đấy âm điệu thơ xôn xao, ngân rung theo nhịp sóng. Nhà thơ đã dùng một loạt tính từ và thủ pháp đối với song hành để gieo vào lòng độc giả ấn tượng khó quên về tính chất của sóng:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”.
Đây là một nhật xét xác đáng, hiểu theo cả hai nghĩa tả thực và tượng trưng. Ai đã từng đến với biển hẳn không thể không suy ngẫm về trạng thái ngược kì lạ của nó: Biển trong giông bão, nhưng con sóng gầm gào sủi tung bọt trắng nổi bật trên nền trời và mặt nước xám xịt… Còn biển lúc đẹp trời, sóng nhấp nhô xanh, dịu dàng êm ả dẹt ren mềm vào chân cát. Hai đối cực ấy khiến cho ai đứng trước biển cũng phải ngỡ ngàng và băn khoăn liên tưởng tới tâm trạng con người, tới chính mình. Xuân Quỳnh chắc đã từng có những phút giây như vậy. Khí chất của Sóng mà chị miêu tả gợi độc giả liên tưởng đến tâm hồn người phụ nữ, đến những con sóng lòng dào dạt ở người phụ nữ đang đắm say yêu.
Cũng ngay ở khổ thơ này, có một câu thơ thường được hiểu theo hai nghĩa: “Sông” hoặc “Sóng” không hiểu nổi bình… Nhưng dù là “sông” hay “sóng” thì đều chỉ chung cái ước vọng khao khát kiếm tìm, vươn tới sự lớn lao, khoáng đạt, tự khám phá và khẳng định mình: “Sóng tìm ra tận bể”.
Nhưng nhà thơ miêu tả sóng có phải chỉ để nói về sóng, về biển cả thôi không ?
“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ…”
Ố! Hoá ra không! Sóng ở đây đươc dùng như một hình ảnh ẩn dụ hay một về so sánh liên tưởng để diễn tả sự “dữ dội và dịu êm” của lòng người, của khát vọng tình yêu tuổi trẻ.
Biển vẫn ngàn năm cồnc ào, xáo động, dào dạt, không ngưng nghỉ, không đổi thay, vẫn trẻ trung và bất diệt thế. Ngực biển vẫn luôn rung nhịp đập phập phồng thuỷ triều. Điều này khiến nhà thơ không khỏi suy tư đến khát vọng tình yêu, tuổi trẻ của con người. Đời người là hữu hạn, nhưng tình yêu của con người thì mãi mãi trường tồn, bất diệt, trẻ trung, là mạch nguồn duy trì sự sống hết thế hệ này sang thế hệ khác, muôn đời như muôn nghìn lớp sóng kế tiếp nhau. Khát vọng tình yêu vượt qua thời gian, vượt qua khôn gian, là nhịp sóng dào dạt, bồi hồi của vô hồi vô hạn ngực trẻ. Lời thơ như một lời tâm sự giản dị mà thâm trầm, và nỗi niềm tác giả được bộc lộ. Đứng trước biển, nghĩ về mình, chị