Giá trị văn chương của "Bình ngô đại cáo"
tượng nhi hà thuỷ can; Ma đao nhi sơn thạch khuyết (Gươm mài đá, đá núi cũng mòn; Voi uống nước, nước sông phải cạn). Diễn tả sự đồng tâm nhất trí trong quân ngũ vì nghĩa lớn, tác giả mô tả cảnh Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm (Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào). Chú dẫn câu này có người đưa ra điển tích Trung Hoa thời Chiến Quốc, còn người đi thực địa cho biết ngày nay ở miền tây Thanh Hoá còn di tích hòn đá Khao và suối Rượu, cũng là nêu những sự thực hiển nhiên.
Nguyễn Trãi vâng mệnh của đấng chí tôn, soạn một văn bản hành chính, điều đó đã rõ ràng, nhưng cũng không kém phần hiển nhiên là trong tâm thế tác giả có cả hai mục đích đều lớn và không mâu thuẫn: soạn một văn bản hành chính và sáng tạo một công trình văn chương. (Ăngghen, trong Thư gửi Stáckenbua có viết rằng con người sáng tạo ra lịch sử của mình, nhưng là sáng tạo trong những điều kiện thực tế đương tồn tại và những quan hệ mà người ta phải thích ứng). Điều này biểu hiện ở chỗ ông sử dụng nhiều thủ pháp tu từ, nhiều chất liệu văn chương điển phạm và nhất là rất có ý thức, có năng lực tạo nên tính nhạc cho ngôn từ. Văn biền ngẫu chỉ yêu cầu cơ bản là mỗi câu gồm hai vế cân xứng còn độ dài câu văn, sự ngắt nhịp là do cảm quan của từng người viết. Có người chỉ thấy thuận lợi (do “có khuôn”) mà không thấy khó khăn đối với tác giả xưa. Trong cái khuôn chung ấy mà biểu lộ được thần thái riêng của từng nội dung và từng cá tính là điều khó khăn, tài năng lớn cộng với bản lĩnh cao mới tạo nên được. Nguyễn Trãi rất linh hoạt chính ở chỗ đầy bó buộc này. Nhạc tính của câu văn Bình Ngô đại cáo đa dạng, phù hợp với nội dung câu văn tự sự, trữ tình hay nghị luận. Ông tuyên ngôn bằng câu súc tích, chắc nịch Ngã Đại Việt chi quốc, thực vi văn hiến chi bang. Miêu tả tội ác quân thù, ông lại sử dụng thủ pháp trùng điệp, như cố ghi hết tội ác to lớn, trời không dung, đất không tha của chúng. Chúng tôi quả rất băn khoăn trước nhận định: “Cáo thường được viết bằng văn biền ngẫu”(5). Nhận định này có thể làm cho người dạy- học Bình Ngô đại cáo ở trường phổ thông trung học hình dung theo hai hướng. Một là cho rằng ở nước ta, ngoài “thiên cổ hùng văn” này còn có những bản cáo khác nữa, thực ra, trong những bộ quốc sử hiện còn đều không nói tới các bản đại cáo nào khác. Đọc sử sách cũ đôi khi chúng ta gặp cụm từ “đại cáo thiên hạ” thì chỉ với ý nghĩa là nhà vua hoặc triều đình, hoặc người đứng đầu một phong trào ban bố rộng rãi điều gì đó, còn không dễ mà có được những bản đại cáo như thời kỳ đầu của nhà Hậu Lê. Phải có điều kiện song hành, bên cạnh một chiến công chính nghĩa lừng lẫy còn phải có một thiên tài văn chính luận. Ngoài thời Lê Lợi và Nguyễn Trãi, chúng ta thấy còn có thời Quang Trung Nguyễn Huệ và Ngô Thì Nhậm. Biết đâu vị hoàng đế anh hùng và thiên tài họ Ngô từng nghĩ đến điều này, nhưng đứng trước Bình Ngô đại cáo các vị lại có cảm nghĩ như Lý Bạch xưa lên lầu Hoàng Hạc cảm xúc dồi dào mà ngần ngại không đề thơ vì có thơ Thôi Hiệu trên đầu! Ngoài ra người dạy- học Ngữ văn ở phổ thông trung học có thể sẽ hình dung rằng trước Bình Ngô đại cáo, ở Trung Quốc thể văn này đã được viết bằng văn biền ngẫu và cùng với nó, đã có hình thức hoàn chỉnh, và theo cách ứng xử của văn chương thời trung đại, Nguyễn Trãi chỉ còn “lắp” câu chữ của mình vào. Thực ra, cho đến nay khi nói về thể cáo, ngoài Bình Ngô đại cáo các chuyên gia văn học trung đại Việt Nam cũng chỉ nhắc đến các bài cáo trong Thượng Thư. Các văn bản trong Thượng Thư ra đời trước công nguyên nhiều thế kỷ(6) còn văn biền ngẫu xuất hiện thời Hán, Ngụy và thịnh hành thời Lục triều. GS. Mai Quốc Liên cho rằng: “Nguyễn Trãi đã với tay ra hàng hai mươi thế kỷ để dùng lại một thể loại cổ xưa hầu như đã chết trong văn học Trung Quốc- cáo- và đưa vào đó một nội dung hoàn toàn mới”(7). Thật vinh dự cho Nguyễn Trãi và Bình Ngô đại cáo vì đã làm nên sự độc đáo trong văn học trung đại Việt Nam là chỉ một tác phẩm làm nên một thể loại, và nhìn trong sự liên thông thể loại văn học Việt-Trung