Nhà thơ Xuân Diệu
tay mơn trớn vẻ tràn đầy.
Thơ Xuân Diệu với những hình ảnh đầy rẫy tính cảm giác, được cảm nhận bằng tất cả các giác quan:
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
hay:
Hương hiu hiu, nên gió cũng ngọt ngào
Từ ngữ sử dụng mới lạ, táo bạo, rất Tây:
Hơn một loài hoa đã rụng cành
hay:
Lòng anh thôi đã cưới lòng em
Cách ngắt nhịp mới, lạ (4 / 2 / 1):
Đàn ghê như nước lạnh trời ơi
Câu thơ của Xuân Diệu mang đậm yếu tố khẩu ngữ, có tính chất đối thoại, mang màu sắc luân lí:
Yêu là chết ở trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu.
Có nhiều khó từ, câu hỏi, cảm thán. Giọng điệu sôi nổi, cuồng nhiệt, đắm say.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Xuân Diệu trở thành nhà thơ cách mạng, hòa mình vào cuộc sống mới, nhiệt thành phục vụ cách mạng. Thơ nở rộ với nhiều tập thơ lớn: Riêng chung (1960), Mũi Cà Mau - Cầm tay (1962), Một khối hồng (1964), Tôi giàu đôi mắt (1970), Thanh ca (1982).
Nếu trước đây, Xuân Diệu mang trong mình nỗi cô đơn hoài nghi trước cuộc đời thì sau cách mạng, nhà thơ đã nhanh chóng hòa nhập, tìm được sự tri âm. Cảm hứng thơ vì thế tươi vui và ấm áp.
Trước lệ sa ta oán hận đất trời
Nay lệ hòa ta lại thấy đời vui
Tình yêu có sự chung thủy, sum vầy, yêu thương, ấm áp.
Đề tài phong phú hơn, mở rộng hơn. Ngòi bút hướng đến Đảng, nhân dân, cuộc sống lao động mới.
Cảm hứng mới, đề tài mới, nội dung mới đòi hỏi cách thể hiện mới. Ngòi bút của Xuân Diệu không thể đi theo lối cũ đường quen. Xuân Diệu học tập lời ăn tiếng nói của nhân dân, ngôn ngữ giản dị, gần với đời sống, tuy có lúc còn vụng về, dễ dãi.
Anh không xứng là biển xanh
Nhưng anh muốn em là bờ cát trắng.
Giọng điệu thơ phong phú, không chỉ đơn thuần là giọng trữ tình mà còn mang giọng trầm hùng cổ kính của sử ca như trong tróng ca Ngọn quốc kỳ hay mang hơi thở triết lý như trong Lệ:
Máu của linh hồn là nước mắt
Còn rơi biết đến thuở nào thôi
Giọng đối đáp giao duyên như trong bài Hỏi:
Ai làm cách trở đôi ta
Vì anh vụng ngượng hay là vì em?
Trăng còn đợi gió chưa lên
Hay là trăng đã tròn trên mái rồi?
Ta còn gặp ở thơ Xuân Diệu sau Cách mạng giọng thơ chính luận, tự sự trữ tình, trào phúng đả kích.
Bên cạnh sáng tác thơ, Xuân Diệu còn viết văn xuôi, nghiên cứu phê bình văn học và dịch thuật. Phấn thông vàng (1939) và Trường ca (1945) là hai tập văn xuôi đặc sắc của ông. Xuân Diệu còn để lại những tập tiểu luận, phê bình có giá trị: Tiếng thơ, Phê bình giới thiệu thơ, Dao có mài mới sắc...
Xuân Diệu là nhà thơ lớn trong văn học hiện đại, nhà thơ lớn của dân tộc. Bài học Xuân Diệu để lại cho đời là tinh thần lao động nghệ thuật cần cù, là niềm tin yêu tha thiết đối với con người, là ý thức chân thành đối với văn chương. Dù đã qua hơn nửa thế kỷ nhưng thơ Xuân Diệu vẫn đầy sức hấp dẫn và lôi cuốn các thế hệ độc giả.
Giới thiệu | Điều khoản | Chính sách | Sử dụng