Giá trị văn chương của "Bình ngô đại cáo"
mặt thì lại gọi đó là thằng Ngô”(11). Và đây là câu mà theo tác giả Thượng Chi văn tập, là một câu ca dao:
Ba mươi tết, tết lại ba mươi,
Vợ thằng Ngô đốt vàng cho chú Khách(12).
Ở một số nước, Trung Quốc chẳng hạn, sáng tác dân gian được văn bản hoá rất sớm (ví dụ Kinh Thi), còn ở ta những ghi chép văn học dân gian xuất hiện muộn, tạo nên một khó khăn khi nghiên cứu mối quan hệ giữa hai bộ phận văn chương dân tộc-văn chương bác học và văn chương dân gian, là có những giá trị rất gần gũi, có thể khẳng định được rằng có sự tiếp thụ, nhưng không thể chỉ rõ được tác giả văn học viết sử dụng của dân gian hay sáng tác của họ được dân gian hoá. Riêng trường hợp chữ Ngô đang bàn, có thể phân định được bằng phép loại trừ. Chúng tôi đã chứng minh, trong trước tác Nguyễn Trãi chữ Ngô chưa đối lập với chữ Minh về sắc thái ý nghĩa, điều này chỉ xuất hiện về sau, bởi vậy nên khẳng định trên cơ sở những chứng cớ khách quan, “chính những trước tác của Nguyễn Trãi mà tiêu biểu là Bình Ngô đại cáo đã góp phần quan trọng đối với việc lưu giữ ký ức lịch sử về quân Minh xâm lược thâm độc, tàn bạo và tư thế vĩ đại của nước Việt thời ấy góp phần hình thành trong tâm thức dân gian Việt Nam cách gọi người phương Bắc bằng từ Ngô với ý nghĩa như chúng ta đã thấy”(13). Chúng ta đều biết có nhiều cách để lưu giữ ký ức lịch sử trong đó tác phẩm văn chương đích thực có ưu thế các lĩnh vực khác khó bì, vì ở đây có sự hài hoà giữa nhận thức và cảm xúc, là “hình thức nhuần nhị nhất của tư tưởng”. Sức sống của chữ Ngô cũng là một cứ liệu khẳng định giá trị văn chương xuất sắc của Bình Ngô đại cáo.
Trước tác này của Nguyễn Trãi đã trở thành một giá trị cổ điển, gắn với nó có một nhận định cũng đã trở thành cổ điển, rằng đây là một “thiên cổ hùng văn” (Vũ Khâm Lân, thế kỷ XVII). Nhận định này rất tiêu biểu cho sự thụ cảm của người xưa về Bình Ngô đại cáo, xem nó như một sáng tác văn chương.
Bình Ngô đại cáo đã được nhiều dịch giả thuộc nhiều thế hệ chuyển ra quốc ngữ và nhìn chung có thể thấy rằng người dịch đến với nguyên tác trước hết cũng không phải như một văn kiện lịch sử, qua việc theo các chuẩn mực tín, đạt, nhã của một văn bản văn chương. Điều này thấy rõ ở xu hướng triệt để bảo lưu tính chất biền ngẫu và nhạc tính của câu văn, ngay cả ở những trường hợp để đạt được điều đó phải dịch đảo câu trong nguyên tác (các câu Nhân tài thu diệp, tuấn kiệt thần tinh; Ẩm tượng nhi hà thuỷ can, Ma đao nhi sơn thạch khuyết). Có những câu dịch so với nguyên tác đã được hình tượng hoá (Tuấn sinh linh chi huyết, dĩ nhuận kiệt liệt chi vẫn nha được dịch thành “Thằng há miệng đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán”).
Chỉ với Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã xứng đáng là nhà văn chính luận kiệt xuất, song ông còn có Quân trung từ mệnh tập- tập văn chính luận quy mô đầu tiên của nước ta. Những trước tác này cùng với thơ của thi hào đã làm nên một hiện tượng độc đáo trong văn học trung đại Việt Nam: Nguyễn Trãi là tác gia duy nhất có sự tương xứng kép, ở bậc cao, tương xứng giữa văn chính luận và văn chương thẩm mỹ, tương xứng giữa trước tác bằng chữ Hán và bằng quốc âm