Thuyết minh Nguyễn Trãi
mạnh bằng mười vạn quân" (Phan Huy Chú) với ngòi bút tinh thông, sắc sảo, biến hoá, nhất quán của mưu sư “viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời” (Lê Quý Đôn). Mỗi bức thư là một khâu, một mắt xích quan trọng trong cả cuộc luận chiến kéo dài giữa ta và địch, là sự kết hợp tuyệt diệu giữa lý lẽ lúc thâm thuý, ý nhị, lúc biến hoá, sắc sảo đến gai góc, tài tình với tư tưởng yêu nước, thương dân đã tạo cho “sức mạnh của ngòi bút Nguyễn Trãi được nhân lên, cú đánh nào của ông cũng trúng đích” (Nguyễn Huệ Chi). Nếu văn đàn Việt Nam đã từng gặp mối giao thời lịch sử và văn học sáng rọi giữa Nam Quốc Sơn Hà với chiến thắng trên sông Như Nguyệt của Lý Thường Kiệt hay Hịch tướng sĩ với chiến thắng chốg quân Nguyên lần thứ II thì Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là sự lặp lại một lần nữa mối giao thời rực rỡ, huy hoàng ấy. Đó là sự kết hợp hài hoà giữa cảm hứng chính trị và cảm hứng nghệ thuật đến mức kì diệu mà chưa một tác phẩm chính luận nào đạt tới, là áng văn yêu nước sáng chói non sông, thời đại - một “thiên cổ hùng văn” không tiền khoáng hậu. Tác phẩm chính là bản tuyên ngôn độc lập, bản cáo trạng hùng hồn tội ác của kẻ thù, là khúc tráng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa phải gắn liền với chống quân xâm lược, bảo vệ quê hương, lo cho dân cuộc sống “thái bình, thịnh trị”, “xã tắc từ đây vững bền” ; lòng tự hào dân tộc sâu sắc:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
(Bình Ngô đại cáo)
Lắng sâu trong Bình Ngô đại cáo là dòng máu lúc bừng lên, sôi sục lòng tự hào dân tộc nhiệt huyết, lúc âm vang, giận dữ, uất hận trào sôi, lúc nghẹn ngào, tấm tức … Nguyễn Trãi luôn ước vọng nhà nước phong kiến sẽ lấy nhân nghĩa để “trị dân”, “khoan dân” cho viễn cảnh quê hương đất nước tươi đẹp hiện ra tươi sáng, huy hoàng, rực rỡ hơn:
“Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn”. Giọng văn chính luận của Nguyễn Trãi đã đạt tới mức độ nghệ thuật mẫu mực từ cách xác định đối tượng, mục đích để có biện pháp khéo léo tạo nên kết cấu sức bén, nhất quán. Với tài năng, đức độ cùng những việc mà Nguyễn Trãi đã làm và cống hiến cho dân tộc, ông xứng đáng là một nhà cải cách vĩ đại, nhà tư tưởng lớn, một danh nhân văn hoá thế giới. Phạm Văn Đồng đã nhận xét: “Đối với Nguyễn Trãi, yêu nước là thươn dân, để cứu nước phải dựa vào dân và cứu nước để cứu dân, đem lại thái bình cho nhân dân.” Tư tưởng nhân nghĩa ấy luôn thiết tha, thường trực chuyển thành tâm trạng lo âu, bất an:
“Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Chẳng nằm thức dậy nẻo canh ba.”
(Bảo kính cảnh giới – 1)
“Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng.”
(Thuật hứng – 5)
Triết lý nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tiềm ẩn như quặng quý mà ta cần phải khai thác, nhưng khi lộ thiên nó lại càng lấp lánh hơn bởỉ tư tưởng, tấm lòng yêu nước, thương dân sáng ngời.
Rạo rực khí phách một thời của vị anh hùng nhưng “Bình Ngô đại cáo” hay “Quân trug từ mệnh tập”…. chỉ là chất thép bao bọc bên ngoài một tâm hồn, một trái tim biết đau nỗi đau thời thế, biết yêu, biết sống đẹp, sống vui. Là bậc anh hùng với lý tưởng cao cả nhưng Nguyễn Trãi xót xa và nghẹn ngào đau xót trước cảnh người dân bị tàn hại vô tội. Ông thương khóc cho “dân đen” đang rên xiết dưới gót giày quân giặc. Tình yêu thương đồng loại cao cả, vĩ đại lắm thay là một phần xương máu, tâm can của con người anh hùng ấy!
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Nguyễn Trãi vốn là con người trung thực, ngay thẳng, yêu lẽ phải và sự công bằng nên nỗi đau xót, buồn rầu, chua chát về thời thế đen bạc, lòng người đổi thay là điều hiển nhiên:
“ …. Càng một ngày càng ngặt đến xương
…. Ở thế nhiều phen thấy khóc cười
…. Bui một lòng người cực hiểm thay”.
Xã hội càng ngang trái, người anh hùng ấy lại càng ngời sáng phẩm chất cứng cỏi, khát khao tự do, thà chết chứ không chịu làm nô lệ của cường quyền bạo ngược:
“Một tấm long son ngời lửa luyện
Mười năm thanh chức ngọc hồ băng
Ung dung cứ nói điều ta thích
Uốn gối theo đời không thể